Sau những nỗ lực chung của cả hai bên trong suốt những năm qua, ngày 9/7 tới, Việt Nam và Lào sẽ tổ chức Lễ chào mừng hoàn thành công tác cắm mốc biên giới giữa hai nước trên thực địa và khánh thành mốc đại (số 460) tại cặp cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Nghệ An-Nậm On, tỉnh Borikhamxay.
Tỉnh nào nước ta có đường biên giới với Lào và Campuchia?
Phía tây của địa phương này giáp các tỉnh Sekong, Attapeu của Lào và Ratanakiri của Campuchia.
Đường biên giới Việt Nam - Lào dài khoảng 2.337,459km, đi qua 10 tỉnh biên giới Việt Nam là Điện Biên, Sơn La, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị. Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Kon Tum; tiếp giáp với 10 tỉnh biên giới Lào là Phông Sa Lý, Luông Pha Bảng, Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bo Ly Khăm Xay, Khăm Muốn. Sa Vẫn Nạ Khệt. Sả Lạ Vân, Xê Kông và Ất Tạ Pu.
Địa hình khu vực biên giới Việt Nam - Lào là một dải núi rừng trùng điệp, hiểm trở và rất phức tạp. Dọc theo biên giới phần lớn có rừng già che phủ, có một vài nơi xen kẽ bình nguyên, thung lũng với những thảm thực vật thưa và thấp. Trên thực địa, đường biên giới di theo các dạng địa hình rất phức tạp, trừ các đoạn biên giới đi theo sông suối, còn lại đều đi trên các sống núi và triền núi cao của dãy Phu Xam Xâu và Trường Sơn, nhiều nơi đường biên giới không đi theo các sống núi liên tục, tạo thành đường thẳng cắt qua mọi địa hình.
Dân cư sinh sống ở vùng biên giới Việt Nam - Lào chủ yếu là nhân dân các dân tộc ít người, mật độ dân cư cư trú, sinh sống ở hai bên đường biên giới khá thưa thớt, điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, vẫn có một số ít bộ phận dân cư sống du canh, du cư, trình độ lạc hậu, một bộ phận bà con còn chưa thạo tiếng phổ thông, chưa có ý thức rõ ràng về biên giới, lãnh thổ. Thực tế đó đã gây không ít khó khăn cho việc quản lý, bảo vệ đường biên giới và mốc quốc giới cũng như việc tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân cư trú trong khu vực biên giới học tập, tìm hiểu các quy định pháp luật về biên giới lãnh thổ.
Việt Nam và Lào là hai quốc gia láng giềng cùng nằm trên bán đào Đông Dương. Nhân dân hai nước đã gắn bó với nhau trong quá trình bảo vệ và xây dựng đất nước, có mối quan hệ láng giềng thân thiện, có truyền thống hữu nghị từ lâu đời. Mặc dù là hai quốc gia có quá trình lập quốc khác nhau, nhưng do có chung các dải núi cao từ Phu Xam Xâu đến dãy Trường Sơn, cho nên biên giới giữa hai nước cơ bản đã hình thành trên thực tế và nhìn chung đều được chính quyền địa phương và nhân dân hai Bên thừa nhận, tôn trọng. Tuy nhiên, biên giới giữa hai nước cũng trải qua nhiều biến động.
Từ cuối thế kỷ XIX đất nước ta bị thực dân Pháp xâm lược, chính quyền thực dân Pháp đã đàm phán, ký kết hiệp ước biên giới với Trung Quốc và Thái Lan để xác lập đường biên giới của xứ Đông Dương thuộc Pháp trong thời kỳ cận đại. Chính quyền thực dân Pháp cũng đã ấn định đường biên giới hành chính giữa các xứ thuộc địa Việt Nam - Lào - Campuchia căn cứ theo đường ranh giới tập quán tử lâu hình thành trong lịch sử. Đối với biên giới Việt - Lào, sự phân định chỉ được thực hiện ở đoạn ranh giới giữa Ai Lao và Trung Kỳ (thực tế cũng chỉ thực hiện được một phần). Cụ thể, ngày 27/12/1913, có quyết định thành lập Ban phụ trách tiến hành phân định biên giới giữa Trung Kỳ và Lào (từ Hà Trại đến ngã ba Việt - Lào - Cao Miên), nhưng cho đến ngày 12/10/1916, khi Toàn quyền Đông Dương ra nghị định ấn định biên giới giữa Trung Kỳ và Lào cũng chỉ xác định rõ biên giới từ Hà Trại đến Thừa Thiên, còn đoạn phía Nam chưa bàn (ấn định sau). Như vậy, toàn bộ phần biên giới Việt - Lào còn lại chưa được Pháp phân định. Cho đến năm 1945, ranh giới hành chính giữa các xử trong Đông Dương đã dần dần ổn định trên thực tế và được người Pháp thể hiện trên các bản đồ Bonne tỷ lệ 1/100.000. Sau khi Việt Nam và Lào cũng giành được độc lập, ranh giới hành chính giữa các xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Ai Lao đã trở thành đường biên giới do lịch sử để lại giữa hai nước Việt Nam và Lào. Do được hình thành trong lịch sử và trải qua quá trình quản lý lâu dài, nên phần lớn đường biên giới do lịch sử để lại này cơ bản đã được hai Bên (Việt Nam và Lào) thừa nhận.
Năm 1975, Việt Nam thống nhất, Lào cũng giành được thắng lợi trong cả nước; vấn đề biên giới giữa hai nước có điều kiện thuận lợi để giải quyết. Từ năm 1976-1977, Việt Nam và Lào đã tiến hành đàm phán hoạch định đường biên giới giữa hai nước và kết quả là hai bên đã ký Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam - Lào ngày 18/7/1977. Thực hiện Hiệp ước hoạch định năm 1977, hai Bên đã phối hợp tiến hành phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới từ năm 1978 và đã hoàn thành được toàn bộ công tác giải quyết vấn đề biên giữa hai nước, trong đó đã cắm 199 vị trí mốc với 214 cột mốc trên thực địa (trung bình khoảng 12km có một vị trí mốc).
Kết quả của quá trình này được ghi nhận bằng các văn kiện pháp lý gồm: Nghị định thư về việc phân giới trên thực địa và cắm mốc biên giới Việt Nam - Lào (1986); Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam - Lào về việc điều chỉnh đường biên giới tại một số khu vực (1986); Nghị định thư bổ sung Nghị định thư về việc phân giới trên thực địa và cầm mốc biên giới Việt Nam - Lào (1987); Hiệp ước xác định giao điểm ba đường biên giới Việt Nam - Lào - Trung Quốc (2006); Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định về việc sửa đổi điểm khởi đầu của đường biên giới quốc gia Việt Nam - Lào (2007); Hiệp ước xác định giao điểm ba đường biên giới Việt Nam- Campuchia-Lào(2008).
Như vậy, trải qua hơn 30 năm (1977-2008) với muôn vàn khó khăn và phức tạp, hai Bên dã phân định được một đường biên giới chính thức trên thực địa, đánh dấu bằng một hệ thống mốc quốc giới chính quy, phù hợp với luật pháp quốc tế, tạo thuận lợi cho hai Bên xây dựng thành công đường biên giới Việt Nam-Lào hòa bình, ổn định, hữu nghị và cùng phát triển.
Đường biên giới giữa Việt Nam và Lào dài khoảng 2.340 km, trải dài suốt 10 tỉnh của Việt Nam là: Điện Biên, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam và Kon Tum; tiếp giáp với 10 tỉnh phía Lào là: Phong Sa Lỳ, Luổng Pha Bang, Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bô Ly Khăm Xay, Khăm Muộn, Sa Văn Na Khệt, Sả Lạ Văn, Sê Kông và A Ta Pư.
1. Đặc điểm địa lý và điều kiện tự nhiên
Đường biên giới giữa Việt Nam và Lào dài khoảng 2.340 km, trải dài suốt 10 tỉnh của Việt Nam là: Điện Biên, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam và Kon Tum; tiếp giáp với 10 tỉnh phía Lào là: Phỏng Sả Lỳ, Luổng Pha Bang, Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bô Ly Khăm Xay, Khăm Muộn, Sa Văn Na Khệt, Sả Lạ Văn, Sê Kông và A Ta Pư.
Phần lớn tuyến biên giới giữa Việt Nam và Lào đều đi qua đỉnh hoặc triền núi và qua rừng rậm nhiệt đới, so với mặt nước biển nơi thấp nhất vào khoảng 300m, cao nhất vào khoảng 2.700m; khu vực các cửa khẩu có độ cao trung bình khoảng 500m, có nơi cao trên 1000m. Giữa hai nước có những dãy núi cao hình thành một đường biên giới tự nhiên: phía Bắc từ A Pa Chải trở xuống là dãy Pu Xam Sẩu, phía Nam từ Thanh Hoá trở vào là dãy Trường Sơn. Một số đèo đã trở thành các cửa khẩu nối liền hai nước, còn trên các đoạn biên giới khác, hầu hết là núi non hiểm trở, đi lại khó khăn.
Dân cư sống hai bên biên giới đa phần là nhân dân các dân tộc ít người, sống thưa thớt tại các làng bản rất xa nhau và xa đường biên giới. Đời sống vật chất và tinh thần của đa số đồng bào các dân tộc của hai bên còn nhiều thiếu thốn và lạc hậu. Giao thông đi lại giữa hai bên và trong khu vực biên giới của từng bên rất khó khăn, hầu như chưa có đường giao thông cơ giới (trừ một vài khu vực cửa khẩu; đông dân cư; một số đường có từ thời chiến tranh; hoặc có đường lâm nghiệp mới mở theo thời vụ đã xuống cấp nhiều…).
Các khu vực gần biên giới có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế đối với hai nước. Nhân dân hai nước ở khu vực biên giới từ lâu đã có sẵn mối quan hệ dân tộc, thân tộc gần gũi, tối lửa tắt đèn có nhau và gắn bó giúp đỡ nhau trong cuộc sống.
2. Lịch sử hình thành đường biên giới Việt Nam - Lào
a. Thời Pháp thuộc, biên giới giữa Việt Nam - Lào được xác định bằng các Nghị định của Toàn quyền Đông Dương (Nghị định năm 1893, Nghị định năm 1895, Nghị định năm 1896; Nghị định năm 1900; Nghị định năm 1904; Nghị định năm 1916)
Đồng thời với việc điều chỉnh đất đai theo các Nghị định của Toàn quyền Đông Dương, thực dân Pháp đã tiến hành điều chỉnh đường biên giới và thể hiện trên bản đồ Bonne tỉ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương.
b. Sau năm 1975, hai nước nỗ lực đàm phán về biên giới lãnh thổ (02/1976) thống nhất nguyên tắc lấy bản đồ Bonne tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương in năm 1945 để giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước; nơi nào không có bản đồ của Sở Địa dư Đông Dương năm 1945 thì dùng bản đồ in trước hay sau đó một vài năm.
Ngày 18/07/1977, Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã được đại diện hai nhà nước Việt Nam và Lào ký tại Thủ đô Viêng Chăn. Việc đàm phán thành công và ký kết Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia là một thắng lợi to lớn của hai Đảng, hai Chính phủ và nhân dân hai nước, đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình xây dựng biên giới Việt Nam - Lào trở thành biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định và hợp tác phát triển lâu dài.
Năm 1978, hai bên bắt đầu tiến hành phân giới, cắm mốc toàn bộ đường biên giới Việt Nam - Lào và hoàn thành công tác này vào năm 1987. Theo đó, trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Lào đã xây dựng được một hệ thống mốc quốc giới với số lượng 199 mốc. Đồng thời trong giai đoạn này, hai nước đã giải quyết xong các vấn đề phát sinh liên quan đến việc giải quyết biên giới giữa hai nước như chuyển giao đất, bàn giao dân và tài sản giữa hai bên… phù hợp với luật pháp quốc tế, thông lệ quốc tế và phản ánh đúng thực tế đường biên giới lịch sử hình thành giữa hai nước.
Các kết quả trên đã được hai bên ghi nhận trong Hiệp ước bổ sung Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (24/01/1986), Nghị định thư về việc phân giới và cắm mốc toàn bộ đường biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (24/01/1986), Nghị định thư bổ sung Nghị định thư về việc phân giới và cắm mốc toàn bộ đường biên giới quốc gia Việt Nam và Lào (16/10/1987).
Sau khi hoàn thành cơ bản công tác phân giới, cắm mốc trên thực địa vào năm 1987, hai bên đã ký Hiệp định về Quy chế biên giới ngày 01/03/1990 và Nghị định thư bổ sung Hiệp định về Quy chế biên giới ngày 31/08/1997 nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho công tác bảo vệ và quản lý biên giới giữa hai nước.
c. Hệ thống mốc quốc giới lúc đó được xây dựng trong giai đoạn hai nước còn đang gặp nhiều khó khăn, kinh tế chưa phát triển, kỹ thuật hạn chế nên chưa đáp ứng được yêu cầu của một hệ thống mốc chính quy, đảm bảo tính ổn định lâu dài.
Mật độ mốc quá thưa, bình quân trên 10 km một mốc (cá biệt có những nơi trên 40 km một mốc). Vì vậy, đường biên giới trên thực địa ở một số nơi không rõ ràng, nên lực lượng quản lý và nhân dân hai bên biên giới không biết rõ được đường biên giới.
Các mốc được thiết kế và xây dựng chưa phù hợp với điều kiện địa hình, địa chất, khí hậu ở khu vực biên giới cũng như kích thước mốc nhỏ, chất lượng mốc chưa cao…, nên hầu hết các mốc giới đã xuống cấp và hư hỏng. Đến nay, hầu hết các mốc đã phải gia cố phần nền móng; có mốc đã phải sửa đi sửa lại nhiều lần gây tốn kém nhưng chưa đảm bảo ổn định. Trong những năm qua hai Bên đã mở và nâng cấp nhiều cửa khẩu cùng với các công trình mới được xây dựng khang trang, hiện đại, nhiều khu vực dân cư ở gần khu vực biên giới phát triển mạnh mẽ nên hệ thống mốc cũ không còn phù hợp, không thể hiện rõ đường biên giới trên thực địa, nhất là ở các cửa khẩu, nơi đông dân cư nhiều người qua lại, gây khó khăn cho công tác quản lý biên giới.
Xuất phát từ thực tế trên, nhằm phục vụ nhu cầu phối hợp quản lý biên giới ổn định lâu dài, góp phần củng cố bền vững mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào. Từ tháng 05/2008, Việt Nam và Lào chính thức triển khai Kế hoạch tổng thể thực hiện công tác tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam - Lào nhằm mục đích hoàn thiện hệ thống mốc quốc giới giữa hai nước theo hướng chính xác, hiện đại, bền vững và thống nhất trên toàn tuyến biên giới. Tổng số mốc tăng dày và tôn tạo gồm 792 cột mốc với 16 mốc đại, 190 mốc trung, 586 mốc tiểu. Thời gian thực hiện Kế hoạch bắt đầu từ năm 2008, trong đó ưu tiên cắm mốc ở khu vực có cửa khẩu và khu vực có đường giao thông thuận lợi đi qua nhằm tăng cường hợp tác, giao lưu phát triển kinh tế và ổn định trật tự an toàn xã hội vùng biên giới.
Ngày 18/01/2008 Việt Nam và Lào đã cùng với Căm-pu-chia cắm mốc ngã ba biên giới và ngày 26/08/2008 tại Hà Nội, đã diễn ra Lễ ký Hiệp ước xác định giao điểm đường biên giới giữa ba nước. Ngày 05/09/2008, tại cửa khẩu Lao Bảo - Đen Sạ Vẳn, hai bên đã long trọng tổ chức Lễ khánh thành mốc đôi 605. Đây là cột mốc đầu tiên chính thức khởi động cho công tác tăng dày và tôn tạo mốc quốc giới giữa hai nước. Tính đến tháng 02/2011, hai Bên đã xác định được 462 vị trí mốc và đã xây dựng 333 vị trí mốc. Hai Bên sẽ hoàn thành công tác cắm mốc trên thực địa vào năm 2012, và hoàn thành Nghị định thư, bản đồ ghi nhận kết quả vào năm 2014.
3. Cửa khẩu trên biên giới Việt Nam – Lào
Cửa khẩu phụ đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định nâng cấp thành cửa khẩu chính nhưng chưa khai trương
Cửa khẩu phụ đang đề nghị nâng cấp thành cửa khẩu chính
Tin tức cập nhật liên quan đến biên giới Việt - Lào
Trong thời kỳ cách mạng giải phóng đất nước, giành độc lập dân tộc, kể cả thời kỳ khó khăn nhất, hai nước luôn kề vai, sát cánh bên nhau trên tinh thần “hạt muối cắn đôi, cọng rau bẻ nửa”. Trong những năm tháng gian khổ nhưng hào hùng này của hai dân tộc, những địa danh trên đường biên giới hai nước đã trở nên bất hủ gắn liền với những chiến công hiển hách của các chiến sỹ cách mạng Việt Nam và Pathet Lào.
Ngay sau khi Việt Nam thống nhất và Cách mạng Lào giành thắng lợi trong cả nước, mặc dù kinh tế còn khó khăn cùng với công việc bề bộn của hai nước nhằm xây dựng đất nước sau chiến tranh, nhưng công tác biên giới lãnh thổ đã được Đảng, Nhà nước và Chính phủ hai nước đặc biệt quan tâm. Ngày 18/7/1977, hai nước đã ký “Hiệp ước hoạch định đường biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHDCND Lào”, tạo cơ sở chính trị và pháp lý cho công tác phân giới cắm mốc giữa hai nước.
Bắt đầu từ năm 1978, sau 9 năm nỗ lực phấn đấu, vượt qua bao khó khăn gian khổ, năm 1987, hai nước Việt Nam, Lào đã hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên thực địa; đã xây dựng được 214 cột mốc trên 199 vị trí mốc. Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định và Nghị định thư về phân giới trên thực địa và cắm mốc quốc giới đã được ký ngày 24/01/1986; Nghị định thư bổ sung Nghị định thư về phân giới trên thực địa và cắm mốc quốc giới được ký ngày 16/10/1987. Với kết quả này, đường biên giới Việt Nam-Lào đã được hoạch định, phân giới, cắm mốc, được thể hiện rõ ràng trên bộ bản đồ đường biên giới quốc gia Việt Nam-Lào tỷ lệ 1/50.000 xuất bản năm 2003 bằng công nghệ kỹ thuật số, chính xác, hiện đại.
Tuy nhiên, đường biên giới hai nước cùng với hệ thống mốc quốc giới được xây dựng trong giai đoạn hai nước còn có nhiều khó khăn về kinh tế nên bộc lộ nhiều điểm cần phải hoàn chỉnh và bổ sung, như khoảng cách giữa các mốc giới nhiều đoạn còn quá dài, có chỗ khoảng cách giữa hai mốc quốc giới lên tới gần 40km; chất lượng các cột mốc cũng chưa bảo đảm tính bền vững; thiên nhiên khắc nghiệt như bão lũ… qua thời gian cũng làm ảnh hưởng nhiều tới địa hình đường biên giới hai nước. Những yếu tố đó đòi hỏi hai nước phải sớm bắt tay tôn tạo và củng cố hệ thống mốc quốc giới.
Từ năm 2008, khi điều kiện kinh tế đã chín muồi, Chính phủ hai nước đã nhất trí phê duyệt và triển khai Dự án tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam-Lào nhằm xây dựng một hệ thống mốc quốc giới chính quy, hiện đại, phù hợp với điều kiện thực tế của mỗi nước, đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý và bảo vệ biên giới trong tình hình mới. Trọng tâm của Dự án là tăng dày số lượng mốc, tôn tạo, xây mới mốc hiện có để làm rõ đường biên giới trên thực địa, đồng thời hoàn thiện hồ sơ pháp lý về đường biên giới Việt-Lào.
Khu vực biên giới Việt Nam-Lào có địa hình hết sức khó khăn, hiểm trở, hầu hết là núi cao, vực sâu, chưa có đường qua lại, thời tiết lại rất khắc nghiệt. Tại nhiều nơi, để xây dựng một cột mốc giới, phải mở đường tới hàng chục km đường công vụ cho việc vận chuyển nguyên vật liệu và thân mốc giới. Có nhiều mốc, để khảo sát, xác định vị trí mốc, lực lượng cắm mốc của hai nước phải hành quân bộ cả chục ngày, vượt hàng chục km đường rừng núi mới tiếp cận được khu vực mốc. Điển hình nhất là các mốc ở khu vực biên giới tỉnh Điện Biên, Tây Nghệ An, Quảng Nam…
Để hoàn thành công tác xây dựng mốc, các lực lượng cắm mốc còn phải tiếp cận từng vị trí mốc để xây dựng, nghiệm thu, bàn giao. Hầu hết địa bàn triển khai công tác cắm mốc là vùng sâu, vùng xa, dân cư thưa thớt, đời sống kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn, nên việc triển khai phương tiện, trang bị kỹ thuật và huy động nhân lực gặp rất nhiều khó khăn. Để đưa các cột mốc nguyên vẹn trong địa hình phức tạp, hiểm trở là một thách thức không nhỏ.
Tuy nhiên, với nỗ lực phấn đấu của Ủy ban liên hợp cắm mốc biên giới hai nước, của các bộ, các ngành và địa phương hai bên, đặc biệt là các lực lượng trực tiếp tham gia vào công tác cắm mốc trên thực địa, hai nước Việt Nam, Lào đã chính thức hoàn thành công tác tăng dày và tôn tạo mốc biên giới Việt Nam-Lào trên thực địa với tổng số 793 vị trí mốc tương ứng 835 cột mốc và cắm bổ sung hơn 20 cọc dấu.
Tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam-Lào là một công trình quan trọng, có ý nghĩa về an ninh, chính trị, kinh tế-xã hội của hai quốc gia; là công việc nhạy cảm liên quan đến chủ quyền lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc, không chỉ đáp ứng yêu cầu trước mắt mà còn đáp ứng yêu cầu lâu dài; là công tác tổng hợp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều lực lượng từ Trung ương đến địa phương hai nước.
Việc hoàn thành công tác tăng dày và tôn tạo mốc biên giới Việt Nam-Lào trên thực địa là một thắng lợi to lớn, có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo tiền đề cho việc bắt tay ngay vào giai đoạn tiếp theo hoàn chỉnh hồ sơ pháp lý để có thể hoàn thành toàn bộ Dự án tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam-Lào vào năm 2014. Từ nay về sau, hệ thống mốc quốc giới hiện đại rõ ràng sẽ tạo thuận lợi cho công tác quản lý và bảo vệ biên giới, mở rộng hợp tác thương mại, thúc đẩy đầu tư và thúc đẩy giao lưu nhân dân, trao đổi văn hoá, du lịch giữa các vùng biên giới hai nước, góp phần củng cố an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội, củng cố an ninh quốc phòng vùng biên giới, góp phần thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai nước.
Sự kiện hoàn thành hệ thống mốc giới hiện đại này sẽ đi vào lịch sử hai nước, là thành quả của mối quan hệ hợp tác đặc biệt Việt Nam-Lào, thể hiện sự nhất trí cao, sự tin cậy, hiểu biết lẫn nhau giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước, là biểu tượng sinh động của mối quan hệ hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện giữa hai nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, vì một đường biên giới hoà bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển, vì lợi ích của nhân dân hai nước.
Có được thành quả đó là nhờ sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo hai Đảng, Nhà nước và Chính phủ hai nước, sự quyết tâm cao của các bộ, ngành và địa phương hữu quan của hai nước. Đặc biệt, các cán bộ, chiến sỹ tham gia trực tiếp trong lực lượng cắm mốc của hai nước đã đoàn kết, hợp tác chặt chẽ, không quản hy sinh, gian khổ đã vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh đó, phải kể tới công lao đóng góp và sự ủng hộ quý báu của đồng bào các dân tộc trong vùng biên giới hai nước, tuy còn nhiều khó khăn, nhưng đều hết lòng ủng hộ về tinh thần, hỗ trợ sức người, sức của giúp đỡ các lực lượng cắm mốc của hai nước hoàn thành nhiệm vụ. Trong quá trình phân giới, cắm mốc trước đây cũng như trong quá trình triển khai công tác tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam-Lào trên thực địa, đã có một số cán bộ, chiến sỹ hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Những giọt máu đào của họ đã thấm sâu vào lòng đất góp phần cho thắng lợi của ngày hôm nay. Trong giờ phút vui chung này, chúng ta tưởng nhớ tới họ với lòng biết ơn sâu sắc và mãi ghi nhớ những hy sinh, mất mát này.
Với hệ thống mốc giới mới hiện đại và trường tồn, đường biên giới hai nước Việt Nam, Lào sẽ mãi mãi trở thành nơi gặp gỡ của tình hữu nghị, của sự hợp tác chặt chẽ vì sự giàu mạnh của hai nước Việt, Lào, xứng đáng với lòng mong đợi của nhân dân và đáp ứng quyết tâm của lãnh đạo hai nước.
Trong thời gian tới, hai bên cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ, bắt tay ngay vào việc xây dựng các văn kiện pháp lý ghi nhận thành quả của công tác tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam-Lào, bao gồm Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc giới, Hiệp định mới về Quy chế quản lý biên giới, Quy chế về cửa khẩu và quản lý cửa khẩu Việt Nam-Lào nhằm đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý biên giới trong tình hình mới, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, tạo thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, củng cố an ninh quốc phòng vùng biên giới hai nước, góp phần tăng cường và củng cố mối quan hệ chiến lược và hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào. Chúng ta tin tưởng rằng với quyết tâm và nỗ lực của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước, toàn bộ Dự án sẽ được hoàn thành vào năm 2014, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân hai nước.
Trụ sở: Lô E2, Khu Đô thị mới Cầu Giấy, đường Dương Đình Nghệ, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Tp. Hà Nội
Giấy phép xuất bản số 100/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 18/02/2022
Phó tổng biên tập phụ trách báo điện tử: Lê Xuân Dũng
Phó tổng biên tập: Lý Thị Hồng Điệp
Lào đã hoàn thành việc phân định biên giới với 3/5 quốc gia láng giềng, bao gồm Việt Nam, Trung Quốc và Myanmar.
Theo Bộ Ngoại giao Lào, công tác phân định biên giới được Lào quan tâm đặc biệt kể từ khi thành lập đất nước với tinh thần hữu nghị, công nhận chủ quyền lẫn nhau và tránh tranh chấp.
Lào có tổng chiều dài đường biên giới với Việt Nam là 2.337 km và đã cắm 1.002 cột mốc biên giới. Trong khi đã có 104 mốc giới được cắm dọc 508 km biên giới Lào với Trung Quốc, 172 cột mộc trên biên giới dài 236 km với Myanmar.
Theo Bộ Ngoại giao Lào, việc đàm phán vẫn đang tiếp tục được tiến hành để phân định biên giới dài 1.835 km với Thái Lan, hiện mới chỉ hoàn thành 37%.
Lào có 535 km đường biên giới với Campuchia, hiện đã cắm được 121 cột mốc, tương đương 86%.
Thứ Hai, 8/7/2013 11:26'(GMT+7)