(Cập nhật lần cuối ngày: 10/09/2024)

Dự báo dân số Nhật Bản 2025-2050

Theo Tiến sĩ Phạm Vũ Hoàng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế, Việt Nam đang có lợi thế cơ cấu dân số vàng. Cơ cấu dân số vàng chỉ xuất hiện một lần duy nhất trong lịch sử nhân khẩu học. Nhiều quốc gia đã tận dụng được cơ hội này để bứt phá, phát triển nhanh.

“Tất cả các nước công nghiệp mới NICs (con rồng châu Á) đều cất cánh bay lên nhờ đã tận dụng thành công giai đoạn cơ cấu dân số vàng. Chuyển đổi nhân khẩu học tác động đến phân bố tuổi dân số và tạo ra dân số vàng là một cơ chế tiềm tàng tác động đến thành công kinh tế. Tuy nhiên, cũng không ít quốc gia đã bỏ lỡ, chìm sâu trong bẫy thu nhập trung bình”, Tiến sĩ Hoàng cho hay.

Một dân số được coi đã bước vào giai đoạn "dân số vàng" khi dân số trong độ tuổi lao động (15-64 tuổi) nhiều gấp 2 lần dân số phụ thuộc (dưới 15 tuổi và trên 65 tuổi) hoặc tỷ số phụ thuộc chung dưới 50%.

Theo các chuyên gia nhân khẩu học, cơ cấu dân số vàng mới chỉ thể hiện ở số lượng người trong độ tuổi lao động.

Bắt đầu từ năm 2007, với tỷ số phụ thuộc chung (nhóm dân số 0-14 tuổi và nhóm dân số trên 65 tuổi tính trên nhóm dân số 15-64) dưới 50%, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng.

Theo dự báo, giai đoạn dân số vàng của nước ta sẽ kéo dài đến khoảng năm 2038 và đây là cơ hội có một không hai dành cho Việt Nam.

Ngay từ khi bắt đầu bước vào thời kỳ dân số vàng, Việt Nam có nhiều chính sách được ban hành và thực thi để tận dụng lợi thế của thời kỳ này như: các chính sách về phát triển nguồn nhân lực và gia tăng đóng góp của lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Kết quả là tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt trên 6%/năm trung bình trong giai đoạn 2011-2018.

Chúng ta đã trải qua 16 năm bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng và chỉ còn 15 năm nữa để tận dụng cơ hội này. Nhưng Việt Nam chưa thực sự khai thác hiệu quả lợi thế của cơ cấu dân số vàng, vẫn nằm trong nhóm nước có thu nhập trung bình thấp.

Lý giải nguyên nhân này, ông Hoàng cho rằng, chủ yếu do chất lượng nguồn nhân lực cũng như năng suất lao động của Việt Nam còn hạn chế, kém hơn nhiều lần khi so với năng suất lao động của Singapore, Malaysia và chỉ bằng 1/3 năng suất lao động của Thái Lan, Trung Quốc.

Chúng ta tận dụng được nguồn lao động dồi dào nhưng chủ yếu là khai thác lao động giá rẻ và lao động giản đơn, chất lượng công việc nằm trong chuỗi giá trị thấp. Hơn một nửa số việc làm chỉ đòi hỏi kỹ năng trung bình, 33,2% là việc làm kỹ năng thấp, chỉ có 11,2% việc làm kỹ năng cao (trong khi đó trung bình các nước phát triển trên thế giới là 20%).

Bên cạnh đó, đa số người lao động của Việt Nam đang tham gia vào các công việc phi chính thức có thu nhập thấp, ít có sự bảo vệ (54% lao động phi chính thức). Trình độ chuyên môn của lao động còn hạn chế, chỉ khoảng 1/4 người đang làm việc được đào tạo từ sơ cấp nghề trở lên.

Tiến sĩ Phạm Vũ Hoàng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện trưởng Viện Dân số và Các vấn đề xã hội, Đại học Kinh tế Quốc dân cho hay, cơ cấu dân số vàng mang lại rất nhiều dư lợi về lao động.

“Cũng với khoảng 100 triệu dân nhưng với cơ cấu hiện nay, Việt Nam có khoảng 68 triệu người trong độ tuổi lao động nhưng nếu với cơ cấu dân số năm 1979 thì chúng ta chỉ có 52 triệu dân. Như vậy, riêng cơ cấu dân số theo tuổi thay đổi đã mang lại dư lợi 16 triệu lao động. Tuy nhiên, cơ cấu dân số vàng chỉ nói về số lượng lao động nhiều”, Giáo sư Cử cho hay.

Theo chuyên gia này, Việt Nam hiện chưa tận dụng hiệu quả thời cơ dân số vàng vì hiện nay, sức khỏe của người trong độ tuổi lao động chưa tốt; lao động còn tập trung nhiều trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản, lâm nghiệp vốn có năng suất thấp; trình độ chuyên môn, kỹ thuật của lao động chưa cao (chưa đến 30% lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp trở lên).

Theo Phó Tổng cục Trưởng Tổng cục Dân số Phạm Vũ Hoàng, để cơ cấu dân số vàng thực sự tận dụng có hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội, Việt Nam cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay.

Việc đầu tư cho thế hệ trẻ về giáo dục, y tế, sức khỏe sinh sản có ý nghĩa quan trọng đối với năng suất lao động và sự phát triển của Việt Nam trong tương lai.

Trình bày đặc điểm dân cư của Nhật Bản:

Nhật Bản là một quốc gia đông dân, với mật độ dân số trung bình khoảng 228 người/km2. Tổng số dân năm 2020 là 126,2 triệu người, với tỉ lệ tăng dân số thấp và có xu hướng giảm.

Tuy nhiên, dân cư của Nhật Bản có những đặc điểm đáng chú ý. Cơ cấu dân số của Nhật Bản đang dần trở nên già hóa, với số lượng người ở nhóm tuổi 0-14 chiếm 12% dân số, trong khi số lượng người ở nhóm tuổi trên 65 chiếm 29% dân số. Điều này dẫn đến sự gia tăng đáng kể về tuổi thọ trung bình trong quốc gia. Năm 2020, tuổi thọ trung bình của người Nhật Bản là 84 tuổi, cao nhất trên thế giới.

Mặc dù mật độ dân số trung bình ở Nhật Bản không quá cao, nhưng phân bố dân cư không đều trên khắp đất nước. Nhiều đô thị tại Nhật Bản đã nối với nhau để tạo thành những dải đô thị lớn như Ô-xa-ca, Kô-bê, và Tô-ky-ô. Tỉ lệ dân thành thị đang tăng nhanh và đang trở thành một trong những vấn đề quan trọng nhất đối với Nhật Bản.

Thực tế, sự tăng nhanh dân thành thị đang gây ra nhiều áp lực về kinh tế, môi trường và hạ tầng cho các thành phố lớn của Nhật Bản. Với nhu cầu tăng trưởng kinh tế và sự phát triển ở các thành phố lớn, nhu cầu về nhà ở, giao thông và các dịch vụ công cộng đang tăng cao. Tuy nhiên, sự phát triển quá nhanh cũng đang gây ra nhiều vấn đề khác nhau, bao gồm ô nhiễm môi trường, áp lực về năng lượng và tài nguyên, và sự phân hóa kinh tế và xã hội.

Trong dân cư của Nhật Bản, có các dân tộc như Ya-ma-tô (chiếm 98% dân số) và Riu-kiu, Ai-nu. Tôn giáo chính của Nhật Bản là đạo Shin-tô và đạo Phật.

Ngoài ra, giáo dục cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển dân cư của Nhật Bản. Hệ thống giáo dục của Nhật Bản được đánh giá là một trong những hệ thống giáo dục tốt nhất thế giới, với sự tập trung vào giáo dục cơ bản và giáo dục phổ thông. Ngoài ra, các chính sách và hoạt động của Nhật Bản cũng tập trung vào việc tăng cường sức khỏe của dân cư và bảo vệ môi trường sống.

Tóm lại, dân cư của Nhật Bản có những đặc điểm đáng chú ý về cơ cấu dân số, mật độ dân số, tỉ lệ dân thành thị và đa dạng về dân tộc và tôn giáo. Tuy nhiên, sự phát triển quá nhanh của dân thành thị đang gây ra nhiều vấn đề khác nhau, và việc giải quyết những vấn đề này sẽ là một trong những thách thức lớn đối với Nhật Bản trong những năm tới.

Khí hậu của Nhật Bản và ảnh hưởng đến đời sống và kinh tế:

Nhật Bản là một quốc gia có khí hậu đa dạng với nhiều quần đảo trải dài, từ vùng bắc đến vùng nam. Điều này dẫn đến sự phân hóa về khí hậu giữa các vùng miền trong đất nước này.

Ở phía bắc, khí hậu của Nhật Bản thuộc dạng ôn đới với mùa đông kéo dài và có tuyết rơi. Vì vậy, ở các vùng miền bắc Nhật Bản, người dân phải đối mặt với những khó khăn về đi lại, điều hòa không khí và cung cấp năng lượng trong mùa đông.

Trong khi đó, ở phía nam của Nhật Bản, khí hậu cận nhiệt và ẩm ướt hơn, thường có mưa to và bão. Điều này có ảnh hưởng đến việc sản xuất nông nghiệp và kinh tế của Nhật Bản. Ví dụ, cơn bão Jebi năm 2018 là một trong những cơn bão nhiệt đới mạnh nhất đã đổ bộ vào Nhật Bản, gây ra thiệt hại nặng nề ở vùng Kansai và gây khó khăn cho đời sống người dân.

Tuy nhiên, khí hậu phân hóa cũng đã tạo ra sự đa dạng trong cơ cấu cây trồng và vật nuôi, đóng góp cho việc phát triển ngành nông nghiệp tại Nhật Bản. Khí hậu của Nhật Bản cũng ảnh hưởng đến các hoạt động khác như du lịch và giao thông vận tải.

Việc ứng phó với khí hậu đang trở thành một trong những vấn đề cấp bách nhất trên thế giới. Khí hậu ảnh hưởng đến đời sống của con người, động thực vật, động vật và môi trường tự nhiên. Tại Nhật Bản, chính phủ đang dành sự quan tâm đặc biệt đến việc giảm thiểu tác động của khí hậu đến đời sống và kinh tế.

Nhật Bản đã đưa ra những biện pháp nhằm giảm thiểu tác động của khí hậu, bao gồm phát triển năng lượng tái tạo và giảm thiểu khí thải. Ngoài ra, Nhật Bản còn đầu tư vào các công nghệ tiên tiến để giảm thiểu tác động của khí hậu đến đời sống và kinh tế.

Tuy nhiên, để đạt được một kết quả tốt hơn, không chỉ chính phủ mà cả cộng đồng mỗi người dân Nhật Bản đều cần phải tham gia vào việc giảm thiểu tác động của khí hậu. Một số hành động như tiết kiệm năng lượng, sử dụng phương tiện giao thông công cộng hay các sản phẩm tái chế cũng sẽ giúp giảm thiểu tác động của khí hậu.

Việc nghiên cứu và quản lý khí hậu cũng là rất quan trọng để bảo vệ đời sống của người dân và phát triển kinh tế bền vững tại Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản đang đầu tư vào nghiên cứu về khí hậu và đưa ra các chính sách nhằm giảm thiểu tác động của khí hậu.

Với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế và công nghệ, việc giảm thiểu tác động của khí hậu đến đời sống và kinh tế ngày càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Nhật Bản đang dẫn đầu trong việc ứng phó với khí hậu và sử dụng công nghệ tiên tiến để giảm thiểu tác động của khí hậu đến đời sống và kinh tế.